Tinh Hán Xán Lạn, May Mắn Quá Thay

Chương 119




Trong cái nhìn xem thường của bào muội, Trình Thiếu Cung đã đến huyện Đồng Ngưu, nhìn đi nhìn lại chỉ thấy dân cư thưa thớt, phố sá heo hút. Cậu chun mũi, bất mãn nói: “Xem ra Thái thú quận Trần xao lãng chức trách quá, trước có Huyện lệnh dưới trướng bỏ trốn, sau lại không lo trấn an thành quách.”

“Trước khi Nhan Trung chạy trốn, Thái thú quận Trần đã hy sinh vì nhiệm vụ.” Lăng Bất Nghi nói.

Trình Thiếu Cung kinh hãi.

Thiếu Thương nói: “Tam huynh không xem bản đồ hả? Trước khi đến muội đã thuộc làu rồi. Quận Trần tiếp giáp Thọ Xuân, lúc Bành phản tặc giương cờ làm phản, trước khi đại quân triều đình tới dẹp loạn, hơn nửa quận huyện đã rơi và tay phản tặc. Thái thú quận Trần là một trong những người trung thành hy sinh sớm nhất, huyện Đồng Ngưu có thể giữ được là nhờ đâu, nhờ thành trì nơi đây vững chãi, tường lũy ngút ngàn, không dễ công phá.” Chuẩn bị bài trước khi lên lớp là thói quen của học sinh giỏi đấy biết chưa.

Trình Thiếu Cung ngạc nhiên: “Còn quận Từ của Vạn bá phụ thì sao?”

“Giữa quận Từ và Thọ Xuân cách nhau một quận Khánh Dương.”

Trình Thiếu Cung thở dài: “Hầy, năm đó huynh từng bói một quẻ mệnh cho bá phụ, là mệnh thượng đẳng gặp dữ hóa lành gặp nạn hóa cát, luôn gặp được may mắn từ trong bất hạnh. Sinh phụ mất sớm nhưng Vạn lão phu nhân có bản lĩnh; trong buổi đại loạn, bác ấy lại gặp được phụ thân mẫu thân của chúng ta.”

Thiếu Thương xỉ vả: “Tam huynh đừng suốt ngày bói quẻ này quẻ nọ nữa. Lúc bá phụ và phụ thân kết nghĩa, Trình gia chỉ mới tụ tập được vài trăm binh lính, lương thảo binh giới đều thiếu thốn, còn đến từ làng quê nghèo túng thưa thớt, không một ai cho rằng chúng ta sẽ làm nên chuyện. Nhưng bá phụ vẫn một lòng với phụ thân, kết giao bình đẳng, cho nên phụ thân mẫu thân mới một lòng báo đáp – có thể tin tưởng người đáng tin vốn là bản lĩnh lớn hơn trời.”

Lăng Bất Nghi chợt ngoái đầu: “Em có tin ta không?”

“Tin chứ, đương nhiên tin rồi, tin tới khi biển cạn đá mòn, chết cũng không hối hận!”

Lăng Bất Nghi bỗng trở mặt: “Được, nếu mai sau em dám nuốt lời, ta sẽ ném em xuống biển làm mồi cho cá!”

Nói đoạn, chàng giục ngựa đi tới trước, Ban Tiểu Hầu cúi đầu đuổi theo, để lại Trình Thiếu Cung nín cười run rẩy và Thiếu Thương nghệt mặt ngơ ngác.

Trình Thiếu Cung cười ha ha: “Muội muội à, vi huynh khuyên muội một câu, đúng là cần lời ngon tiếng ngọt nhưng muội đừng có mở miệng là tuôn một cách trơn tru như vậy, lời ngon tiếng ngọt dễ dàng có khác gì nịnh nọt!”

Câu trả lời của Thiếu Thương là một cước đạp thẳng vào mông ngựa của bào huynh đang cưỡi.

Đến tiếp đón mọi người là một Huyện thừa họ Doãn, cũng là người bản xứ, nghe bảo là đồng tộc khác nhánh của Doãn Quận thừa được đồng chí lão Vạn cất nhắc, hiện tại y là thượng quan duy nhất còn lại ở huyện Đồng Ngưu. Doãn Huyện thừa trông rất đáng thương, dáng vẻ tiều tụy, giọng ủ dột, rất cung kính với nhóm Thiếu Thương, hỏi gì đáp nấy.

Huyện Đồng Ngưu là nơi may mắn trong buổi loạn thế binh tai, vì thành trì cao to nên không bị công phá, về sau Nhan Huyện lệnh bỏ trốn, còn giao lệnh phù ấn tín cho một viên tướng họ Mã trong đại doanh của Bành nghịch tặc, tướng lĩnh nọ giả làm Nhan Huyện lệnh ra ngoài cứu viện quay về, lệnh mở cổng huyện. Rồi sau đó quân lính trong thành nhóm bị bắt nhóm bị chiêu hàng, quá nửa còn lại không muốn chết cũng không chịu đầu hàng, sau khi Huyện lệnh biến mất và quân địch tràn vào thành, bọn họ bỏ chạy đến quận Khánh Dương ngay trong đêm.

Nói tóm lại, dân chúng trong thành không gặp nạn quá nhiều, chỉ bị ăn mấy trận đánh, những gia đình giàu có bị cướp tài sản, còn tính mạng vẫn được bảo toàn.

Doãn Huyện thừa tuy nhát gan nhưng vẫn kiên quyết không hàng địch, về sau tướng lĩnh thủ thành bị huynh trưởng của Lâu Nghiêu thuyết phục đầu hàng. Thiếu Thương nảy sinh lòng kính phục y, liền một hơi khen ngợi Doãn Huyện thừa với bảy mươi tám thành ngữ như là trung liệt thiên thu rường cột nước nhà linh khí đất trời khác xa đám phản tặc một trời một vực… vân vân.

Doãn Huyện thừa cười trừ: “Kỳ thật Nhan Huyện lệnh không phải người xấu, dù ông ấy tính kiêu ngạo, không thích bàn chuyện với bọn ta, nhưng quả thực cuộc sống của bách tính đã dần khấm khá lên trong mấy năm ông ấy đảm nhiệm. Dẫu trong nhà túng quẫn cũng sẽ tự xoay sở, nào ngờ lại…”

Thiếu Thương cười, đây là người đầu tiên tới lúc này nói tốt cho Nhan Trung. Nàng hỏi: “Chi bằng mời Huyện thừa kể lại đầu đuôi chuyện Nhan Huyện lệnh bỏ trốn.”

Doãn Huyện thừa thở dài, mời mọi người xuống ngựa rồi đến hậu viện nha huyện nói chuyện.

“Kể ra không khác gì nằm mơ, sáng hôm đó Nhan Huyện lệnh vẫn giống bao người, chỉ là nét mặt có hơi xấu hổ, còn hỏi vợ con già trẻ nhà ta đang ở đâu, ta nói đã đưa cha mẹ và các con về quê tạm lánh, chỉ có vợ già không chịu đi. Sau đó ta đi tuần tra phòng thủ trong thành như mọi khi, kiểm tra binh tốt thủ thành, nào ngờ mới dùng cơm trưa quay về đã nghe nói Huyện lệnh dẫn theo gia quyến cùng hai ngàn cân đồng tinh luyện rời khỏi thành, bảo là muốn đi cứu viện.”

“Đại nhân nghe ai nói Nhan Huyện lệnh muốn đi viện binh?” Thiếu Thương lặng lẽ lấy thẻ trúc và bút than tùy thân ra cẩn thận ghi chép lại, Lăng Bất Nghi mỉm cười nhìn nàng.

Doãn Huyện thừa đáp: “Là Tả Huyện thừa Lý Phùng. Khi Huyện lệnh đại nhân rời thành, Lý Phùng đuổi theo rồi để lại lời nhắn với binh lính canh cổng.”

“Nhà Nhan Huyện lệnh có bao nhiêu người?”

“Một nhà sáu người. huyện lệnh là hiếu tử, mấy năm trước còn đón cha mẹ cao đường tới báo hiếu, dưới có hai con ấu và thê thiếp hai phòng.”

“Một nhà sáu người đi sạch, không ai cảm thấy kỳ lạ mà hỏi thăm à.” Thiếu Thương khó tin.

Doãn Huyện thừa xấu hổ: “Huyện lệnh là người nghiêm khắc, nói năng thận trọng, hình ảnh xây dựng nhiều năm có ảnh hưởng rất nặng, hạ quan bọn ta không dám vặn hỏi nhiều.”

Thiếu Thương gật đầu, Doãn Huyện thừa lại nói, “Ta bán tin bán nghi, tới khi chập tối quay về, đứng trên đầu thành thì thấy đội quân đông nghịt kéo đến, tướng quân dẫn đầu cầm ấn tín và lệnh phù của Huyện lệnh đại nhân ra, hơn nữa bọn họ ăn mặc…”

Lăng Bất Nghi hiểu, cùng là quân đội địa phương nên trang phục đều như nhau.

“Kế đó bị lừa mở cổng thành, đến khi bọn ta phát hiện tình hình không ổn thì đã không kịp nữa.” Doãn Huyện thừa cúi đầu thở dài, “Sau đó ta gặp Lý Phùng ở trong ngục, ông ấy nói Huyện lệnh đại nhân bỏ lại bọn ta chạy trốn, đem đồng tinh luyện đi, còn bán huyện Đồng Ngưu cho phản tặc. Ông ấy không muốn đi theo nên nhân cơ hội bỏ chạy, nào ngờ vẫn bị bắt về. Tới lúc vợ già đưa cơm nước cho ta, nói ở bên ngoài đã truyền tin Nhan Huyện lệnh đã hàng địch phản quốc, còn đem theo hai ngàn cân đồng tinh luyện.”

Thiếu Thương cau mày: “Vậy nói cách khác, cho đến tận bây giờ, chuyện liên quan đến Nhan Huyện lệnh bỏ trốn chỉ toàn là truyền miệng?”

Doãn Huyện thừa khổ sở lắc đầu, rút ra một thanh tre trong tay áo đưa cho mọi người xem. Bên trên viết tám chữ: vọng nảy lòng tham, thâm tâm hổ thẹn.

Doãn Huyện thừa nói: “Có tất cả bốn mươi năm mươi thẻ tre như thế này, đây chỉ là tấm thẻ còn dư, số ban đầu đã bị đốt gần hết, tất cả đều do chính Nhan Huyện lệnh viết. Làm quan cùng huyện đã nhiều năm, sao ta có thể nhìn nhầm nét chữ của Huyện lệnh đại nhân. Cũng có nô bộc sau đó nói từng chứng kiến Huyện lệnh nhốt mình trong thư phòng, miệt mài viết tám chữ này…”

Trình Thiếu Cung cười khan: “Xét từ góc độ phản tặc thì Nhan Huyện lệnh cũng có lương tâm đấy, còn biết hổ thẹn kia à.”

Ban Tiểu Hầu nghiêm mặt: “Vậy đã sao. Thế nhân ai chẳng sợ chết, chỉ có ông ta được tham sống sợ chết ư?!”

Thiếu Thương biết một thúc phụ của Ban Gia thà chết chứ không đầu hàng, về sau bị quân địch xử tử, trong lòng bỗng thở dài.

Lăng Bất Nghi chợt hỏi: “Giờ Lý Phùng đang ở đâu?”

Doãn Huyện thừa đáp: “Chết rồi.”

Mọi người ngạc nhiên.

“Ôi, khi mới bị bắt vào lao ngục ông ấy còn rất đầy năng lượng, luôn nói chúng tôi sẽ không bị nhốt lâu đâu. Ta hỏi vì sao ông ấy biết, ông ấy nói đại quân triều đình sắp đến rồi. Ta càng ảo não, nghĩ bụng nếu đại quân đến thật, ép phản tặc cùng đường quay lại cắn ngược, không chừng còn khai đao trừ khử chúng tôi trước, nhưng Lý Phùng vẫn khăng khăng điều đó.”

Doãn Huyện thừa buồn bã, “Có lẽ vì ông ấy phát ngôn luôn miệng, lặp đi lặp lại, cuối cùng đã chọc giận ngục tốt, một đêm hắn nọ xông vào lao ngục giết ông ấy, chết ngay trước mặt ta. Rồi khoảng vài ngày sau, phản tặc thủ thành đầu hàng thật, chúng tôi cũng được thả ra… Ôi… Lão Lý ơi…”

Tà dường rơi bóng phía tây, mọi người không khỏi bùi ngùi trước cuộc đời vô thường. Thiếu Thương dừng bút không vui, manh mối lại đứt gãy nữa rồi.

Lăng Bất Nghi bỗng hỏi: “Ông nói tôn phu nhân từng đưa cơm nước cho ông, vậy người nhà của Lý Phùng có từng đưa cơm nước không?”

Doãn huyện thừa khen: “Lăng đại nhân thật cẩn thận. Đúng vậy, lúc chúng tôi bị giam trong ngục thì vợ của Lý Phùng có tới một chuyến. Hầy, hai người bọn họ đúng là vợ khéo gặp chồng vụng, Lý Phùng luộm thuộm cẩu thả, nhưng vợ ông ấy là người thận trọng cơ trí. Vợ già nhà ta cũng có biết bà ấy, nói bà ấy là người dù đi qua cầu đá cũng phải gõ ba lần xem có chắc chắn không. Lúc bà ấy đến đưa cơm thăm tù, cứ lo mãi không biết Lý Phùng có được thả không, Lý Phùng thì thầm vào tai bà ấy mấy câu, bà ấy yên tâm rời đi. Giờ xem ra bà ấy đã đúng rồi.”

“Hiện tại thân nhân của Lý Phùng đang ở đâu?” Thiếu Thương đã hiểu, lập tức truy hỏi.

Doãn Huyện thừa ngẩn ra, thở dài đáp: “Có lẽ đã bỏ chạy rồi, người đàn bà nhát gan thận trọng như thế đâu dám ở lại huyện nữa. Nói tóm lại sau đó ta cũng không có tin tức của bọn họ, chính tay ta thu dọn thi thể của Lý Phùng.”



Hai hôm sau, Thiếu Thương ngoan ngoãn đợi ở nha huyện theo lời dặn của Lăng Bất Nghi, nhưng nàng liên tục tìm nô bộc hỏi thăm, lại còn sờ tới sờ lui trong phòng cũ của Nhan gia. Lăng Bất Nghi dẫn người truy tìm manh mối còn sót lại – vợ con của Lý Phùng.

Lại hai ngày trôi qua, Thiếu Thương ôm một chồng thẻ tre đến tiền đường nha huyện tìm Lăng Bất Nghi, chần chừ nói: “… Mọi người cảm thấy Nhan Huyện lệnh đầu hàng bỏ trốn thật à?”

Lăng Bất Nghi cầm một cuốn lụa trắng trên tay, Lương Khưu Khởi đứng bên cạnh chàng, vẻ mặt nghiêm trọng.

Lăng Bất Nghi nghe thế, dịu dàng đáp: “Sao thế, em phát hiện được gì à.”

Thiếu Thương trải một cuốn vải dài nhỏ ra cho Lăng Bất Nghi xem: “Nhan Huyện lệnh thi chính cần cù, những năm qua luôn khuyến khích nông dân trồng tằm, xây dựng trường học, còn đào ba con kênh lát hai con đường… Chàng xem, đây là hai sườn núi ông ấy định khai khẩn, trong này viết rất chi tiết. Nếu ông ấy đã định trốn thì hà tất phải làm đến thế này?”

“Rồi sao nữa?”

“Em nghĩ đi nghĩ lại, cảm thấy nên đi hỏi Mã tướng quân ngày trước đã lừa mở cổng thành, ông ấy đã lấy được ấn tín và lệnh phù của Nhan Huyện lệnh như thế nào.”

Lăng Bất Nghi thở dài, kéo nàng tới ngồi cạnh mình: “Ta muốn nói với em hai chuyện, đều là chuyện xấu. Thứ nhất, hôm qua đã công phá được thành Thọ Xuân, Thôi thúc phụ toàn thắng, bắt sống được Bành Chân.”

“Đây là tin tốt mà.” Thiếu Thương mỉm cười, “Hẳn thương vong không lớn đâu ha.”

“Đúng là không có nhiều thương vong, nhưng Mã Vinh Mã tướng quân em muốn hỏi đã chết rồi.”

Lương Khưu Khởi bổ sung: “Nghe nói là tên ngầm bắn chết, mất mạng tại chỗ.”

Thiếu Thương biến sắc, mây đen giăng cõi lòng. Nàng ý thức được âm mưu này quá lớn.

Lăng Bất Nghi nói tiếp: “Chuyện thứ hai, thân nhân của Lý Phùng cũng đã chết, hóa ra ngay trong đêm hôm đó bọn họ đã rời khỏi huyện Đồng Ngưu. Ta đã sai Lương Khưu Khởi chia binh đi mấy đường hỏi thăm, cuối cùng cũng có người gặp thôn phụ kia cùng mấy hài nhi được nô bộc bảo vệ. Sau đó bọn ta phát hiện thi thể của bọn họ bị chôn cất qua loa ở dưới sườn núi ngoài thành, tài sản bị cuỗm sạch, có lẽ muốn khiến người khác nghĩ là do sơn tặc gây ra.”

Thiếu Thương lại gần Lăng Bất Nghi, căng thẳng hỏi: “Chàng cũng cảm thấy không phải do sơn tặc gây ra à?”

“Quá nhiều điểm trùng hợp, không thể không nghi ngờ.”

“Vậy làm thế nào đây?” Thiếu Thương bối rối, “Mọi manh mối đều đã đứt, các chàng có kiểm tra thi thể của vợ con Lý Phùng không, liệu có…”

“Không có gì cả, thi thể, quần áo, xe cộ tay nải, không còn lại bất cứ thứ gì. Thủ đoạn sạch sẽ đấy.” Lăng Bất Nghi tự giễu, “Ta còn sai người thăm dò xem vợ Lý Phùng đã gặp những ai, nói những gì từ khi thăm tù về cho đến trước lúc rời khỏi huyện Đồng Ngưu, nhưng vẫn không có thu hoạch. Lý Phùng là người làng ngoài, mới đến huyện Đồng Ngưu chậm chức không lâu, mà thời gian đó Mã Vinh vừa tiếp quản huyện Đồng Ngưu, người trong huyện nơm nớp lo sợ, hàng xóm láng giềng còn không dám nói chuyện với bà ta.”

“Không đi đâu cả ư?” Thiếu Thương tuyệt vọng.

Lăng Bất Nghi nhìn Lương Khưu Khởi, Lương Khưu Khởi nghĩ ngợi rồi đáp: “Chỉ đến một cửa hàng làm một miếng ngọc giác, thậm chí còn cãi với người trong cửa hàng.”

Thiếu Thương cười: “Hai hôm nay em cũng cho người hỏi thăm, ai cũng bảo vợ của Lý Phùng trầm tính kiệm lời, rất tốt tính. Xem ra để xoay sở chi phí mà bà ta chẳng ngại ngần gì.”

Lương Khưu Khởi nói: “Nghe người đàn bà đó liên tục nói miếng ngọc giác được quân cữu để lại khi làm trưởng đình, ít cũng phải được một ngàn đồng, nhưng tiệm cầm đồ nói màu ngọc không đẹp, nhiều lắm chỉ ba trăm đồng. Thế là làm um lên, rất nhiều người trong tiệm nghe thấy…”

Thiếu Thương chợt đứng bật dậy.

Lương Khưu Khởi im lặng, Lăng Bất Nghi buồn cười nhìn nàng: “Em phát hiện được gì rồi?”

Đôi mắt Thiếu Thương trong veo: “Lý Phùng mồ côi cha mẹ, phụ thân của ông ấy đã qua đời khi ông ấy hai mươi tuổi. Lý Phùng được tộc nhân nuôi lớn, phụ thân của ông ấy cũng chưa bao giờ làm trưởng đình!”

Lăng Bất Nghi lập tức phản ứng kịp thời: “Lương Khưu Khởi, ngươi dẫn người tìm kiếm dọc theo hướng Nhan Trung rời đi xem có cái đình nào không, đào lên tại chỗ!”

Lương Khưu Khởi ôm quyền lĩnh mệnh.

Tim Thiếu Thương đập thình thịch, cảm thấy có chuyện gì đó sắp sáng tỏ.

Đứng ngồi không yên hơn nửa ngày, khi ngoài trời sắp tối, cuối cùng cũng có người phi ngựa về báo tin – đã tìm được rồi, cách huyện Đồng Ngưu tám mươi dặm có một đình ngắm cảnh.

Lần này chẳng những Thiếu Thương đòi đi theo, tới nhóm Doãn Huyện thừa và Ban Gia cũng muốn đi cùng.

Đến đình ngắm cảnh xây dựa vào núi, trong bóng đêm mịt mùng buốt giá, tiếng cú kêu từ xa đến gần nghe đỗi thê lương, thị vệ xung quanh giơ cao bó đuốc, không một ai nói gì, thể như một nghi lễ cúng tế đầy quái quỷ.

Một chiếc hố to ở trước đình đã được đào lên, bên dưới là những thi thể đỏ sậm, tổng cộng có mười hai thi thể, rõ ràng đã bị thiêu hủy sau khi sát hại.

Tuy không nhận ra mặt mũi nhưng xương cốt vẫn còn, ngỗ tác kiểm tra một hồi rồi đưa ra kết luận: một bà lão trên sáu mươi, hai người đàn ông trên dưới năm mươi, một người phụ nữ chừng bốn mươi, hai cô gái chưa tới ba mươi, hai đứa bé chưa đến mười tuổi, ngoài ra còn có hai thanh niên trẻ và hai thiếu nữ – vừa khéo khớp với sáu người nhà họ Nhan cùng một lão bộc, một phó mẫu, hai tỳ nữ và hai hộ vệ.

Nhất là bà cụ trên sáu mươi kia, tay trái bà ấy có lục chỉ, là dấu hiệu đặc biệt của mẹ già Nhan Trung.

Thiếu Thương sợ hãi, lùi về sau một bước, nghiêng đầu nhìn gương mặt băng giá của Lăng Bất Nghi, hai mắt chàng còn sáng hơn những bó đuốc xung quanh. Nàng đẩy chàng: “Có phải bây giờ… chàng đã rõ ràng rồi không…”

Lăng Bất Nghi né người cúi đầu: “Em còn nhớ tại dịch trạm trước khi lên đường, chúng ta đã hỏi kỹ người hầu của Vạn gia đã từng đến những đâu lúc còn ở đô thành không?”

Thiếu Thương gật đầu: “Nhà họ Hàn, nhà họ Lâm, nhà ngoại của Vạn bá mẫu… Thực ra bá phụ không kết thân nhiều với thế gia đô thành, vì thế sẽ không để A Phúc đi đưa lễ nhiều nơi.”

“Em sót một nhà rồi.”

“Nhà nào?”

“Nhà họ Trình các em!”

Thiếu Thương ngẩn ra, đoạn bật cười, nhưng âm thanh lại rất gượng gạo: “Bá phụ đưa lễ cho nhà em từ lâu rồi, thời gian đó A Phúc rất bận, có ghé nhà em đâu.”

“Không phải đưa lễ, mà là tham dự tiệc đính hôn.” Giọng Lăng Bất Nghi phẳng lặng, “Tiệc đính hôn của chúng ta.”

Thiếu Thương lặng thinh, siết thật chặt áo khoác, một nỗi sợ hãi vô hình dần dâng lên.

“Có một người rất giàu và có danh tiếng, ngay tới người chính trực lầm lì như Nhan Trung cũng sẵn lòng kết giao.”

“Người này không những hào phóng mạnh tay mà còn kết giao rất rộng, lúc ngao du bên ngoài từng lung lay rất nhiều hào khách giang hồ, có thể âm thầm sai bọn họ giết người diệt khẩu.”

“Y còn có rất nhiều sư môn ngang vế, có thể tìm người thuyết phục Hoàng Văn vạch tội Vạn Tùng Bách.”

“Quan trọng hơn, hôm đó y cũng đã đến tiệc đính hôn của hai ta, với giao tình của hai nhà Trình Vạn, chắc chắn người hầu của Vạn gia sẽ đích thân tới tặng lễ.”

Tròng mắt Thiếu Thương co lại, nàng im bặt như bị mất ngôn ngữ.

Lăng Bất Nghi yêu thương sờ đầu hàng: “Đúng vậy, chính là người em đang nghĩ tới.”

Cả hai không nói gì thêm, Lăng Bất Nghi nhanh chóng sai người phi ngựa đến dịch trạm tìm chủ tớ Vạn Tùng Bách, để bọn họ đi đường tắt tới lỵ sở quận Khánh Dương, cũng là đại bản doanh nơi đại quân Thôi Hầu đang đóng.

Sau một ngày cưỡi khoái mã, nhóm Lăng Bất Nghi gặp được chủ tớ Vạn Tùng Bách ở ngoài thành lỵ sở quận Khánh Dương. Thiếu Thương nói: “Vết thương của bá phụ vẫn chưa lành mà, để A Phúc đi là được rồi.”

Vạn Tùng Bách ôm vết thương sắp nứt, thở dốc nói: “Tuy không hiểu dụng ý của mấy đứa nhưng nhận diện người cũng hay, ít nhất không phải làm hồn ma chết oan.”

Sau khi vào thành, đoàn người theo Lăng Bất Nghi thẳng tiến đến một tửu quán hai tầng. Trong tửu quán huyên náo tiếng nói cười, kẻ đến người đi, nào tướng sĩ đeo giáp nào văn sĩ đeo bộ kiếm, mọi người uống rượu gõ kiếm, vỗ bàn hát hò, cùng chung niềm vui đại thắng Thọ Xuân.

Lăng Bất Nghi không vào mà đứng dưới ngưỡng cửa sổ tầng hai, cao giọng gọi: “Lâu Bôn Lâu Tử Duy có ở đấy không? Lăng Tử Thịnh xin ghé thăm.”

Xung quanh thoáng lặng đi, rồi cửa sổ ở giữa tầng hai từ từ mở ra, đằng sau là một thanh niên văn sĩ tướng mạo bình thường nhưng phong độ hiên ngang, phong thái bất phàm, như vị thủ lĩnh ở triều đình trên cao, là nhân vật sinh ra để dẫn lối giang sơn.

Chủ tớ Vạn gia cùng ngẩng đầu, cùng nhau “a” lên!

Vạn Tùng Bách thất thanh: “Chính là hắn!… Nhưng… Vì sao hắn lại đi gặp lão tặc Nhan Trung?”

Vạn Phúc cũng nói: “Không sai, người ở đền Điệp Thủy hôm ấy chính là hắn ta, dù hắn đã đổi trang phục nhưng tiểu nhân tuyệt đối không nhìn nhầm!”

Hy vọng cuối cùng của Thiếu Thương tan biến, nàng cúi đầu đứng một bên, trước mắt hiện lên nụ cười ngây thơ rạng rỡ của Lâu Nghiêu. Có lẽ không đến nỗi tru di toàn tộc đâu nhỉ.